Lê Thánh Tông húy là Tư Thành, con trai thứ tư của Thái Tông, mẹ là Quang Thục Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao. Vua sinh ngày 20 tháng 7 năm đại Bảo thứ 3 (1442). Hoàng tử Tư Thành có “Thiên tư tuyệt đẹp, thần sắc khác thường, vẻ ngoài tuấn tú, nhân hậu rạng rỡ, nghiêm trang, thật là bậc thông minh, xứng đáng làm vua, bậc trí dũng để giữ nước”1. Vua là người rất chăm học, thông minh, ít nói, khiêm tốn, có sức thu phục, cảm hóa mọi người.
Năm Thái Hòa thứ 3 (1445) được phong làm Bình Nguyên Vương. Ngày 8 tháng 6 năm Canh Thìn (1460) vua lên ngôi ở điện Tường Quang, xưng là Nam thiên Động Chủ, lấy ngày sinh nhật là Sùng thiên thánh tiết. Đổi niên hiệu hai lần: Quang thuận 11 năm và Hồng Đức 28 năm.
Bia Chiêu Lăng (bia Lê Thánh Tông) là một trong sáu tấm bia hiện còn ở khu di tích Lam Kinh. Bia Chiêu Lăng dựng ở trên quả đồi thoai thoải mang tên Gò Đình. Bia Chiêu Lăng nay còn nguyên vẹn, đặt trên lưng rùa và đây là tấm bia có nhiều chữ nhất trong số bia ở Lam Kinh. Theo “bản chữ Hán và bản dịch của tác giả Lê Kim Ngân trong Tổ chức chính quyền Trung ương dưới triều Lê Thánh Tông (1460 – 1497), Sài Gòn, Bộ Quốc gia Giáo dục, 1963, thì hầu như không có chữ nào bị mất cả”2.
Bia được làm bằng một tấm đá nguyên khối dựng trên một con rùa đá, cao 2,76m, rộng 1,94m, dầy 0,28m. Rùa tạc thân dài ngẩng đầu cao, tư thế vươn về phía trước, thân rùa 2,68m, rộng 1,84m, chiều cao đến lưng rùa 0,05m. Rùa có 4 chân, mỗi chân 5 móng lộ rõ, lưng rùa chạm hoa văn đơn giãn.
Bia dựng hướng Nam, trán tạo hình vòng cung, trang trí ba con rồng. Giữa là rồng lớn, hai bên rồng nhỏ hơn tư thế chầu vào. Một con miệng há đang vươn tới ngậm hạt trân châu, con khác miệng há to phun rửa. Rồng được chạm thân hình uốn khúc bay lượn.
Diềm bia tính từ đỉnh xuống trang trí 6 con rồng. Rồng có tư thế uốn lượn hình yên ngựa, miệng há to phun ra các đao lử tư thế bay lên. Diềm bia trang trí tương xứng 4 con rồng, mỗi bên 2 con chầu vào, phong cách rồng tạo giống diềm bên thân bia. Ở hai bên hông bia trang trí mỗi bên một con rồng lớn tư thế vút cao, đầu chạm hình các đao lửa, đuôi uốn lượn tạo hình tam sơn.
Bia có tên “Đại Việt Lam Sơn Chiêu Lăng bi” tên bia được khắc chữ Triện trên đường diềm ngăn cách giữa bia và thân bia từ phải qua trái.
Bia dựng vào mùa xuân năm Mậu Ngọ niên hiệu Cảnh Thống thứ nhất (1498) đời Lê Hiến Tông. Bề tôi vâng soạn văn bia gồm ba vị là thân Nhân Trung, chức Quang kiến đại phu, Hàn lâm viện Thừa chỉ, Đông các Đại học sỉ kiêm Quốc Tử giám Tế tửu, Chính trị khanh.
Đàm Văn Lễ, chức Thượng thư bộ Lễ, Gia hạnh đại phu kiêm Đông các Đại học sĩ, Khuông mỹ doãn.
Lưu Hưng Hiếu chức Đạt tín đại phu, Đông các Đại học sĩ, tu thiện Thiếu doãn.
Bề tôi vâng viết chữ là Nguyễn Đức Tuyên, chức Mậu lâm lang Trung thư giám Trung thư xá nhân.
Bề tôi vâng viết chữ Triện trên trán bia là Phạm Bảo, chức Cẩn sự tá lang Ngự dụng giám san thư cục Cục chính.
Toàn văn bia khắc kiểu chữ Khải chân, mặt trước khoảng 58 dòng hơn 3.000 chữ, nhiều chữ mờ. Mặt sau chạm mặt sau có tên “Thánh tông Sùng Thiên quảng vận, Cao minh quang chính, Chí Đức đại công, thánh văn thần vũ, đại hiến thần hoàng đế vãn thi” khắc một bài thơ do vua Lê Hiến tông đề, khổ rộng 0,40m, dài 0,80m. Xung quanh bài thơ tạo một đường viền có rồng chầu. Phía dưới có 35 bài thơ của các công thần họa vần (Toàn văn bài minh ca ngợi Hoàng đế Lê Thánh Tông trong sự nghiệp dựng nước).
"Thiên khai Đại Việt
Thánh tổ triệu bang
Thái tông khẳng cấu
Nhân tông khẳng đường
Thiện kế thiện thuật
Bất khiên bất vương (vong)
Trùng hy lũy hiệp
Trị chỉ bình khang
Lạng Sơn tác nghiệt
Biến khởi tiêu tường
Cửu châu tứ hải
Võng bất tận thương
Thuế phiệt huân thần
Đồng tâm xướng nghĩa
Chiến túc cung vi
Tái an thần khí
Chưng tai Thánh tông
Tiên hoàng chi tự
Tư bẩm thông minh
Đức toàn dũng trí
Lịch số tại cung
Thần dân hề chí
Ác phù xiển trân
Ngưng mệnh chúng vị
Ân đàm tác giải
Đạo điệu thể càn
Kinh luân nhập kỉ
Tổng lãm hóa quyền.
Chấp trung kiến cực
Pháp tổ hiến thiên
Nhân hoằng dụ hậu
Hiếu đốc phụng tiên
Văn chiêu Khuê Bích
Học tạo uyên nguyên
Đôn điển sùng lễ
Viễn nịnh thân hiền.
Vĩ vĩ tuy du
Ưu ưu phát chính
Vị quốc cửa kinh
Ngự thần bát kính.
Doãn ly bách công
Sủng tuy triệu tính
Văn giáo đản phu
Võ công kỳ định
Sơn Lạo độn tông
Bồn Man quy mệnh
Đại úy tiểu hoài
Khuynh phong ngưỡng kính
Duy bỉ Chiêm khấu
Lũy thế vi cừu
Nhiễu ngã Nam bỉ
Xâm bỉ tứ châu
Thân đề hổ lữ
Cao quá long chu
Đồ Bàn mạo liệu
Thi Nại huyết lưu
Trà Toàn thụ thủ
Thanh miếu hiến tù
Vạn lý tịch địa
Thiên cổ phục thù
Xuẩn xuẩn Lão Qua
Ngạnh ngô thanh giáo
Uyên tẩu bô đào
Tùng hoàng kiệt ngạo
Đế hách tư nộ
Hưng suy trí thảo
Bạch mao nhất huy
Tiền qua tận đảo
Trúc phá khôi phi
Đình lê huyệt tảo
Tam thùy tức phân
Cửu Di thông đạo
Thế đăng Hiên tự
Tục vãn Ngu Chu
Thâm nhân hậu trạch
Thùy tứ thập thu.
Đỉnh hồ đan thục
Thừa vận thượng du
Bát âm át mật
Vạn tính bi ưu
Trừ hoàng kế thống
Nhân vọng túc phu
Tam niên tang chế
Hiếu trị đốc tu
Nhân sơn hữu kỳ
Đồng quỹ tất chí
Tố mạc di tuần
Lam Sơn lệ chỉ
Cung kiến y quan
Vu tư vĩnh bí
Liệt thánh viên lăng
Đông hồi tây nhĩ
Viết thược viết từ
Tuế thời hưởng tự
Lai yến lai ninh
Tỷ hưu tôn tử
Đế chi linh sảng
Rắc giáng tại đình
Đế chi huân đức
Cổ kim mạc kinh
Càn khôn đồng đại
Nhật nguyệt tịnh minh
Nguy nguy đãng đãng
Bút trát nan danh
Kính thuật ngạnh khái
Vĩnh lặc kiên trinh
Thiên trường địa cửu
Đột ngột nham quỳnh”3.
Con trưởng Hoàng đế Lê Thánh Tông là Hoàng Thái tử Lê Tranh, lại có tên là Huy, lên kế nghiệp, là tác giả bài thơ viếng cha (được khắc mặt sau của bia).
“Mọi loài đều bước lên cõi thọ
Dấy hưng triều đại ba mươi tám năm hết sức cao đẹp.
Đạo thánh sáng rực soi thủa trước ngàn năm nắm vững vận nước
Võ đã ổn định biên thùy phái Nam, công lao muôn đời.
Cung nữ gần gũi buông rủ mành trúc sông Tương
Các bậc công thần từ xa ngưỡng trông Cung nỏ hồ Đình.
Bậc con hiếu vừa lên nối ngôi cao cả.
Đau thấu tới trười xanh khôn cùng tả xiết”4.
Bia Chiêu Lăng là một trong 5 tấm bia được thủ tướng Chính phủ Quyết định công nhận bảo vật quốc gia tại Lam Kinh: Bia Vĩnh Lăng (bia vua Lê Thái Tổ) công nhận năm 2013, bia Khôn Nguyên Chí Đức (Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao) năm 2015, bia Chiêu Lăng (bia vua Lê Thánh Tông) công nhận năm 2016, bia Dụ Lăng (bia vua Lê Hiến Tông) năm 2017, bia Kính Lăng (bia vua Lê Túc Tông) năm 2020./.
Chú thích:
Bài: Lê Thị Dịu
Cán bộ phòng nghiệp vụ Ban QLDTLK